Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Nâng cao năng suất lao động - giải pháp quan trọng để đạt mục tiêu tăng trưởng

|

Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương: Nâng cao năng suất lao động - giải pháp quan trọng để đạt mục tiêu tăng trưởng

Theo TS. Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê;, để đạt được tốc độ tăng năng suâ;́t lao động (NSLĐ) 4,8% - 5,3% vào năm 2024 như Nghị quyết phát triển kinh tế, xã hội năm 2024 vừa được Quốc hội thông qua cần phải tập trung đào tạo, đào tạo lại lao động.
 
Tăng năng suất lao động -  một trong những giải pháp quan trọng để đạt mục tiê;u tăng trưởng GDP từ 6,0-6,5% vào năm 2024
 
Theo TS. Nguyễn Thị Hương, để đạt được mục tiê;u phát triển cho năm tới và những năm tiếp theo cần phải thực hiện rất nhiều giải pháp, trong đó tăng năng suất lao động là một trong những giải pháp quan trọng. Để tăng năng suất lao động phải giải quyết được một trong 3 điểm nghẽn đó là chất lượng nguồn nhâ;n lực. Bởi Nghị quyết của Quốc hội cũng đặt ra yê;u cầu cho năm tới là tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 24,1% - 24,2%. Muốn phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thì phải có nguồn nhâ;n lực đáp ứng được yê;u cầu. Chính vì vậy, Quốc hội cũng đặt mục tiê;u tỷ lệ lao động qua đào tạo vào năm tới đạt khoảng 69%, trong đó đào tạo có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 28 - 28,5%.
 
Trong thời đại kỷ nguyê;n số, NSLĐ là yếu tố quyết định nâ;ng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp, có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tăng NSLĐ là mục tiê;u hàng đầu mà các quốc gia trê;n thế giới đang hướng đến để thoát khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Ý nghĩa của tăng NSLĐ đối với tăng trưởng kinh tế càng trở nê;n quan trọng hơn khi các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, tài nguyê;n trở nê;n khan hiếm, nguồn lao động đang bị ảnh hưởng do xu thế già hóa dâ;n số trong tương lai.
 
Công cuộc đổi mới trong gần 40 năm qua đã đạt những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; chất lượng nguồn nhâ;n lực chưa đáp ứng được yê;u cầu của quá trình phát triển; NSLĐ thấp và có khoảng cách khá xa với các nước trong khu vực.
 
TS. Nguyễn Thị Hương cho biết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm bao giờ cũng đặt ra chỉ tiê;u tỷ lệ lao động qua đào tạo, trong đó “ấn định” tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ và hầu như năm nào cũng đạt kế hoạch đặt ra. Nhưng thực tế thì sao? Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã từng nhiều lần phát biểu, nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là doanh nghiệp lớn, tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp đang giữ công nghệ nguồn, sản xuất máy móc, thiết bị hiện đại, điện tử, máy tính, chip bán dẫn...  khi đến Việt Nam đều đánh giá rất cao môi trường đầu tư, cơ chế, chính sách... nhưng rất nhiều doanh nghiệp đã “một đi không trở lại” bởi chất lượng lao động, nhất là lao động trong lĩnh vực công nghệ cao không đáp ứng được cả về số lượng lẫn chất lượng.
 
Đâ;y là một thực tế, vì nhà đầu tư nước ngoài không thể vừa sản xuất, vừa đào tạo lao động. Chính vì vậy, để trở thành quốc gia thịnh vượng vào năm 2045, Đại hội XIII của Đảng xác định phát triển nguồn nhâ;n lực, nhất là nguồn nhâ;n lực chất lượng cao là đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
 
Nghiê;n cứu của Tổng cục Thống kê; về giải pháp tăng năng suất lao động tại Việt Nam
 
Cải thiện và thúc đẩy nâ;ng cao NSLĐ là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, là điều kiện tiê;n quyết để đưa Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, thích ứng với xu thế toàn cầu và chống chọi tốt với các cú sốc từ bê;n ngoài. Để có thê;m thông tin hỗ trợ quá trình hoạch định chính sách nhằm nâ;ng cao NSLĐ, TS. Nguyễn Thị Hương cho biết, Tổng cục Thống kê; thực hiện Báo cáo “NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2011-2020: Thực trạng và giải pháp”. Nghiê;n cứu đã phâ;n tích, đánh giá về thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng và chuyển dịch NSLĐ của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nâ;ng cao NSLĐ trong thời gian tới.   
 
Ở Việt Nam, NSLĐ là một chỉ tiê;u thuộc Hệ thống chỉ tiê;u thống kê; quốc gia được quy định trong Luật Thống kê;, được tính bằng GDP bình quâ;n trê;n một lao động đang làm việc trong năm. Một nền kinh tế có NSLĐ cao nghĩa là nền kinh tế có thể sản xuất ra nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ hơn với cùng một lượng nguyê;n liệu/yếu tố đầu vào, hoặc sản xuất ra số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ tương đương với lượng nguyê;n liệu/yếu tố đầu vào ít hơn. Từ đó, đời sống của người dâ;n được nâ;ng lê;n, góp phần thúc đẩy và phát triển xã hội. Đối với doanh nghiệp, tăng NSLĐ tạo ra lợi nhuận lớn hơn và thê;m cơ hội đầu tư để mở rộng sản xuất. Đối với người lao động, tăng NSLĐ dẫn tới lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn. Về lâ;u dài, tăng NSLĐ có ý nghĩa quan trọng đối với tạo việc làm cho người lao động. Đối với Chính phủ, tăng NSLĐ giúp tăng nguồn thu từ thuế, có điều ki???n để tăng tích lũy, mở rộng phát triền sản xuất và nâ;ng cao phúc lợi của nhâ;n dâ;n.
 
Nghiê;n cứu chỉ ra, muốn tăng được NSLĐ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu tiê;u dùng của xã hội; vốn sản xuất; tiền lương, tiền công, tiền thưởng; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; thể chế, chính sách; cơ cấu sản xuất; các yếu tố gắn liền với điều kiện tự nhiê;n; và chất lượng lao động. Trong đó, chất lượng lao động giữ vai trò then chốt, quyết định tăng trưởng NSLĐ. Bởi khoa học kỹ thuật công nghệ càng phát triển, máy móc thiết bị càng hiện đại thì càng đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyê;n môn tương ứng. Người lao động có trình độ học vấn cao có khả năng tiếp thu nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó tạo ra hiệu quả làm việc cao nhất.

Nghiê;n cứu cho thấy, có một mối quan hệ tích cực giữa số năm đi học, đào tạo của người lao động với năng suất. Vì vậy, năm nào Quốc hội cũng đặt chỉ tiê;u lao động qua đào tạo là một trong những chỉ tiê;u phát triển kinh tế, xã hội, nhưng quan trọng là phải đào tạo thực, người được đào tạo phải đáp ứng yê;u cầu của doanh nghiệp chứ không phải là số liệu báo cáo.

 
Để hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia thịnh vượng vào năm 2045, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII nê;u nhiều nhiệm vụ trọng tâ;m cụ thể, trong đó có nội dung đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâ;ng cao NSLĐ, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện và thúc đẩy nâ;ng cao NSLĐ là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, là điều kiện tiê;n quyết để đưa Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, thích ứng với xu thế toàn cầu và chống chọi tốt với các cú sốc từ bê;n ngoài./. 
 
M.B
 
 
Trang web giải trí chọi gà